Lập trình ngôn ngữ tư duy (Neuro – Linguistic – Programming; viết tắt là NLP) được coi là chìa khóa quan trọng giúp nhiều cá nhân và tổ chức trên thế giới đạt được thành công và hạnh phúc. Càng hiểu sâu, biết rõ về NLP, Bạn càng nắm chắc vận mệnh của chính bản thân mình và qua đó phát triển đội nhóm để đạt được thành công lớn.
Vậy khởi nguồn của phương pháp này như thế nào? Nguyên lý, thành phần và kỹ thuật về NLP thế nào ? Nếu bạn còn đang mơ hồ thì hãy cùng Oneness World khám phá câu trả lời nhé !
Nguồn gốc của NLP
Vào đầu những năm 1970, trong khi Tom Peters đang nghiên cứu môn sở trường học trong nhiều tổ chức và tìm kiếm những chiến lược thành công, thì John Grinder (nhà ngôn ngữ học) và Richard Bandler (nhà toán học) lại cố gắng tìm kiếm những công cụ xuất sắc trong việc phát triển tiềm năng bản thân. Và họ tạo ra phương pháp NLP chứa đựng 3 thành tố có ảnh hưởng vô cùng lớn đến quá trình hình thành kinh nghiệm cá nhân của mỗi người.
Hai nhà sáng lập NLP
Những người sáng lập NLP cho biết, con người hiếm khi phản ứng trực tiếp với thế giới xung quanh. Ban đầu, họ dùng những gì thu nhận được từ thế giới bên ngoài trong quá trình sống để “lập trình” cho bộ não của mình.
Tức là bộ não sẽ tạo nên những mô thức hành vi và phản ứng trong các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Rồi họ hành động và phản ứng theo các lộ trình đã được cài đặt sẵn đó. Chẳng hạn, một số người luôn luôn hét lên khi nhìn thấy gián, một số người khác ngay lập tức dơ chân lên giẫm, một số người khác lại mặc kệ,…
Từ quan điểm này, họ tạo ra NLP – phương pháp của họ có thể mô hình hoá các hoạt động phức tạp của con người và cho người khác học hỏi. Những điều cơ bản của mô hình này được mô tả trong một loạt sách như “From Frogs to Princes” (Bandler và Grinder, 1979), “Lập trình ngôn ngữ thần kinh I (Diltz, Grinder, Bandler, De Lozier, 1980).
Theo Bandler và Gri, NLP bao gồm một phương pháp được gọi là mô hình hóa, cộng với một tập hợp các kỹ thuật bắt nguồn nhiều công trình của Virginia Satir, Milton Erickson và Fritz Perls . Bandler và Gri cũng xây dựng NLP dựa trên lý thuyết của Gregory Bateson, Alfred Korzybski và Noam Chomsky (ngữ pháp chuyển đổi đặc biệt), cũng như ý tưởng và kỹ thuật từ Carlos Castaneda.
Trong những năm qua, NLP đã phát triển nhiều công cụ và kỹ năng mạnh mẽ để giao tiếp và đạt được sự thay đổi lâu dài với phạm vi ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như tư vấn, tâm lý trị liệu, giáo dục, sức khoẻ, sáng tạo, luật, quản lý, bán hàng, lãnh đạo, nuôi dạy con cái…
Đến thời điểm này, trong quá trình phát triển của mình, NLP đã có những bước tiến đáng kể so với những ngày đầu ra đời vào giữa những năm 1970 của thế kỷ trước. Trong những năm qua, NLP đã lan rộng hầu như khắp thế giới, chạm đến cuộc sống của hàng triệu người.
Kể từ năm 1990, một thế hệ NLP mới đã và đang phát triển, tạo ra một khuôn khổ thế hệ và có hệ thống, đồng thời tập trung vào các thách thức ở mức độ cao như bản sắc, tầm nhìn và sứ mệnh. Bạn có thể tìm thêm chi tiết về thế hệ mới này trong NLP II:”Thế hệ tiếp theo- Làm phong phú thêm nghiên cứu về trải nghiệm chủ quan” (Dills, De Lozier, Bacon và Dills).
NLP là một cách tiếp cận quốc tế, phổ quát, lan rộng khắp thế giới. Mọi người kết nối với nhau ở mức độ sâu sắc. Chúng ta khác nhau về nội dung trải nghiệm, ký ức và văn hoá, nhưng lại giống nhau về cấu trúc.
Gần đây (khoảng năm 1997), Bandler tuyên bố: “NLP được phát triển dựa trên việc tìm hiểu hoạt động và mô hình hoá nó. Để mô hình hoá các hành vi, tôi đã sử dụng mọi thứ từ ngôn ngữ học đến hình ba chiều,… Các mô hình hành vi được tạo nên đều là các mô hình chính thức dựa trên toán học, các nguyên tắc logic như tính toán vị ngữ và các phương trình toán học cơ bản của hình ba chiều”.
Nguyên lý khoa học về NLP
Một trong những giáo sư nổi tiếng được trao giải Nobel về những công trình nghiên cứu của mình – Gerald Edelman, đã trải qua hơn 30 năm để tìm hiểu cách hoạt động của bộ não con người. Ông đã chứng minh được hơn 10 tỉ tế bào thần kinh của mỗi con người đã sắp xếp thành từng nhóm và hình thành nên những biểu đồ phản ánh lại trải nghiệm của chúng ta.
Chúng cho phép con người ý thức được về thế giới xung quanh, đây chính là sự khác biệt của loài người so với những loài động vật còn lại. Sự liên kết giữa các tế bào não càng hoạt động nhiều thì càng phát triển theo tỉ lệ thuận, còn những tế bào còn lại sẽ chết dần.
NLP sinh ra để nghiên cứu chi tiết về cách mỗi cá nhân hành xử theo thói quen của họ. Với Neuro – Linguistic – Programming chúng ta có thể nắm bắt được những khuôn mẫu nào đang thực hiện những nhu cầu của bản thân sau đó thêm vào dó những khuôn mẫu mới để đạt hiệu quả cao hơn cho bất kì trường hợp nào mà trước kia ta đã xử lý chưa tốt.
Một trong những điều đặc biệt của NLP đó chính là: Ta có thể học được cách thức làm việc của một người và lặp lại nó, đó chính là nguyên lý mô phỏng của NLP (Principle of Modelling) – Một trong những phương pháp kinh điển tiếp cận cho việc phát hiện và bắt chước những kĩ năng của các nhân tài kiệt xuất trên thế giới.
Để nhấn mạnh một điều rằng “Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng” – Khi hiểu bản thân mình, chúng ta có thể lựa chọn người mà ta sẽ trở thành trong tương lai.
Các thành phần chính và khái niệm cốt lõi của NLP
NLP gồm 3 khái niệm trung tâm bao gồm: chủ quan, ý thức và sự học tập
NLP có thể được hiểu theo ba thành phần rộng và các khái niệm trung tâm liên quan đến các thành phần cụ thể như sau:
Chủ quan
Theo Bandler và Gri: Chúng ta trải nghiệm thế giới một cách chủ quan, chính vì thế, não bộ tạo ra một thế giới thu nhỏ và chủ quan của riêng chúng ta – thứ được gọi là kinh nghiệm. Kinh nghiệm được hình thành nhờ sự giao tiếp của chúng ta với thế giới thông qua ngôn ngữ và 5 giác quan. Các tác giả cũng cho rằng trải nghiệm chủ quan của con người có cấu trúc rõ ràng. Theo nghĩa này, đôi khi NLP được định nghĩa là nghiên cứu về cấu trúc của trải nghiệm chủ quan.
Ý thức
NLP được xây dựng dựa trên quan niệm rằng ý thức được phân chia thành một thành phần ý thức và một thành phần vô thức. Những trải nghiệm chủ quan xảy ra bên ngoài nhận thức của một cá nhân được gọi là “tâm trí vô thức”.
Học tập
NLP sử dụng một phương pháp bắt chước trong việc học tập mô hình hóa được gọi là mô hình hóa dữ liệu.
Nguyên lý hoạt động NLP
NLP được đưa ra để nghiên cứu về cách hành xử theo thói quen của từng cá nhân. Những nhà nghiên cứu ủng hộ NLP cho biết, một người có thể học hỏi từ người khác những mô thức có ích đối với họ. Ngay sau đó, họ có thể luyện tập những mô thức mới cho hành vi của chính mình. Có thể gọi điều này là “tái lập trình não bộ” để hành xử tốt hơn trong những trường hợp tương tự với trường hợp trước kia họ đã ứng xử không hiệu quả.
Mục đích của NLP là thay đổi tận gốc hành vi, tức là thay đổi tư duy của mỗi người. Trong nhiều trường hợp, việc thay đổi này khá dễ dàng và mang lại hiệu quả cao.
Kỹ thuật NLP
Theo một nghiên cứu của Steinbach, quá trình ứng dụng kỹ thuật NLP vào thực tế gồm một số giai đoạn chính bao gồm thiết lập mối quan hệ, thu thập thông tin về trạng thái tinh thần và mục tiêu mong muốn của thân chủ, sử dụng các công cụ và kỹ thuật cụ thể để can thiệp và đề xuất thay đổi.
Đầu tiên là hành động thiết lập và duy trì mối quan hệ giữa người hành nghề và thân chủ đạt được thông qua việc tạo nhịp và dẫn dắt bằng lời nói và hành vi phi ngôn ngữ.
Khi mối quan hệ được thiết lập, người hành nghề có thể thu thập thông tin (chẳng hạn, sử dụng câu hỏi) về trạng thái hiện tại của thân chủ cũng như giúp thân chủ xác định trạng thái hoặc mục tiêu mong muốn của họ.
Người hành nghề phải chú ý đến các phản ứng bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ khi thân chủ xác định trạng thái hiện tại và trạng thái mong muốn và bất kỳ “tài nguyên” nào có thể được yêu cầu để thu hẹp khoảng cách. thân chủ thường được khuyến khích xem xét hậu quả của kết quả mong muốn và cách chúng có thể ảnh hưởng đến cuộc sống và mối quan hệ cá nhân hoặc nghề nghiệp của họ.
Tiếp đến, người hành nghề sẽ hỗ trợ thân chủ đạt được kết quả mong muốn bằng cách sử dụng các công cụ và kỹ thuật NLP nhất định để thay đổi các biểu hiện và phản ứng đối với các kích thích trên thế giới. Cuối cùng, giúp thân chủ thay đổi “nhịp độ trong tương lai” bằng cách giúp họ luyện tập tinh thần và tích hợp những thay đổi vào cuộc sống.
Ứng dụng của NLP
Phương pháp NLP được ứng dụng trong nhiều ngành nghề khác nhau bao gồm trị liệu, giáo dục, kinh doanh,…
Ứng dụng NLP trong trị liệu
NLP căn bản được sử dụng như một liệu pháp bổ trợ của các nhà trị liệu thực hành trong các chuyên ngành trị liệu khác nhau. Ngoài ra, nó cũng được coi là một phương pháp điều trị đặc hiệu được gọi là “Neurolinguistic Psychotherapy” được công nhận bởi Hội đồng Tâm lý Vương quốc Anh.
Phương pháp này cũng đã được sử dụng để nghiên cứu về sự ảnh hưởng của niềm tin đối với bệnh tật. Và các nhà khoa học đã nhận thấy cách bác sĩ trao đổi thông tin với bệnh nhân có thể ảnh hưởng tốt hoặc xấu đối với quá trình phục hồi. Từ đó có thể tạm đưa ra kết luận rằng, niềm tin có mối tương quan thuận đối với sức khỏe thể chất của con người.
Ứng dụng khác
Mặc dù các kỹ thuật cốt lõi ban đầu của NLP là trị liệu theo định hướng nhưng bản chất chung của chúng cho phép chúng được áp dụng cho các lĩnh vực khác. Kỹ thuật phát huy tiềm năng cùng nlp có thể ứng dụng vào:
- Thuyết phục
- Bán hàng
- Đàm phán
- Đào tạo quản lý
- Thể thao
- Giảng dạy
- Huấn luyện
- Xây dựng đội ngũ